HÌNH ẢNH CHÁU NỘI
Hình ảnh cháu nộihttp://www.mediafire.com/myfiles.php#myfiles
Đám cưới Nguyễn Nguyên Đình + Phạm Thị Ngọc Mỹ
http://www.mediafire.com/myfiles.php#myfiles
QUỐC HIỆU VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ
|
Việt
Nam qua các thời kỳ lịch sử đã dùng nhiều quốc hiệu (tên chính thức của quốc
gia) khác nhau. Bên cạnh đó, cũng có những danh xưng được dùng chính thức hay
không chính thức để chỉ vùng lãnh thổ thuộc quốc gia Việt Nam.
Quốc hiệu chính thức
Dưới
đây là danh sách các quốc hiệu chính thức của Việt Nam theo dòng lịch sử. Các
quốc hiệu này đều được ghi chép trong các sách sử Việt Nam, hoặc được chính
thức sử dụng trong nghi thức ngoại giao quốc tế. Trong đó có những tên gọi
của một số vùng lãnh thổ tạm thời nằm dưới quyền quản lý của các chính quyền
tồn tại trong một thời gian của lịch sử.
Văn
Lang
Được
coi là quốc hiệu đầu tiên cho Việt Nam. Quốc gia này có kinh đô đặt ở Phong
Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ. Lãnh thổ gồm khu vực Đồng bằng Bắc Bộ và ba tỉnh
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Quốc gia này tồn tại cho đến năm 258
TCN.
Âu
Lạc
Năm
257 TCN, nước Âu Lạc được dựng lên, từ liên kết các bộ lạc Lạc
Việt (Văn Lang) và Âu Việt, dưới uy thế của Thục Phán - An Dương Vương. Âu
Lạc có lãnh thổ bao gồm lãnh thổ của Văn Lang trước đây và một phần đông nam
Quảng Tây (Trung Quốc)
Khoảng
cuối thế kỷ III, đầu thế II TCN (năm 208 TCN hoặc 179 TCN, Triệu Đà (quận úy
Nam Hải-nhà Tần) tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng cự của An Dương
Vương thất bại, nhà nước Âu Lạc bị xóa sổ.
Vạn
Xuân
Là
quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi khỏi chính quyền
trung ương Trung Hoa, dưới sự lãnh đạo của Lý Nam Đế. Nó tồn tại từ năm 544
đến năm 602.
Đại
Cồ Việt
Là
quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Đinh năm 968. Nó tồn tại đến đời vua Lý
Thánh Tông năm 1054.
Đại
Việt
Là
quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Lý. Nó ra đời năm 1054, khi vua Lý Thánh
Tông lên ngôi. Nó tồn tại không liên tục, đến năm 1804, trải qua các vương
triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn.
Đại
Ngu
Là
quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Hồ. Quốc hiệu Đại Việt được đổi thành Đại Ngu
năm 1400 khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền. Sau khi nhà Hồ bị thất bại trước nhà
Minh, và nhà Hậu Lê giành lại độc lập cho Việt Nam, quốc hiệu của Việt Nam
đổi lại thành Đại Việt.
Về
quốc hiệu này, theo truyền thuyết, họ Hồ là con cháu Ngu Thuấn (là một trong
Ngũ Đế nổi tiếng ở Trung Hoa thời thượng cổ); sau này con Ngu Yên là Vĩ Mãn
được Chu Vũ Vương của nhà Chu phong cho ở đất Trần gọi là Hồ Công, sau dùng
chữ Hồ làm tên họ. Hồ Quý Ly nhận mình là dòng dõi họ Hồ, con cháu Ngu Thuấn,
nên đặt quốc hiệu là Đại Ngu. Chữ Ngu ở đây có nghĩa là "sự yên
vui", chứ không có nghĩa là "ngu si" .
Việt
Nam
Đất nước Việt Nam
phát triển sau các cuộc Nam tiến trong 700 năm
Quốc
hiệu Việt Nam chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long
đã đề nghị nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt, với lý lẽ rằng
"Nam" có ý nghĩa "An Nam" còn "Việt" có ý nghĩa
"Việt Thường". Tuy nhiên tên Nam Việt trùng với quốc hiệu của lãnh
thổ nhà Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa; nhà Thanh đổi
ngược lại để tránh nhầm lẫn, và chính thức tuyên phong tên này năm 1804.
Tuy
nhiên, tên gọi "Việt Nam" có thể đã xuất hiện sớm hơn. Ngay từ cuối
thế kỷ 14, đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (nay không còn)
do Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí viết
đầu thế kỷ 15 của Nguyễn Trãi (1380-1442) nhiều lần nhắc đến hai chữ
"Việt Nam". Điều này còn được đề cập rő ràng trong những tác phẩm
của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), chẳng hạn ngay trang mở đầu
tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: "Việt Nam khởi tổ xây
nền". Người ta cũng tìm thấy hai chữ "Việt Nam" trên một số
tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia
chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Tây, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh... Đặc
biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam
hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa ngő yết hầu của nước Việt Nam
và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Về ý nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều
cho rằng từ "Việt Nam" kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý
(người Việt ở phương Nam).
Sau
này, danh xưng Việt Nam được chính thức sử dụng như quốc hiệu từ thời Đế quốc
Việt Nam.
Đại
Nam
Năm
1820, vua Minh Mạng lên ngôi xin nhà Thanh cho phép đổi quốc hiệu Việt Nam
thành Đại Nam , ngụ ý một nước Nam rộng lớn. Tuy nhiên nhà Thanh đã
không chính thức chấp thuận. Khi nhà Thanh bắt đầu suy yếu, vua Minh Mạng đã
chính thức đơn phương công bố quốc hiệu mới Đại Nam vào ngày 15 tháng 2 năm
1839. Quốc hiệu này tồn tại đến năm 1945.
Đế
quốc Việt Nam
Sau
khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9 tháng 3 năm 1945, hoàng đế Bảo Đại tuyên
bố độc lập và thành lập chính phủ độc lập ngày 17 tháng 4 năm 1945, đứng đầu
là nhà học giả Trần Trọng Kim, với quốc hiệu Đế quốc Việt Nam. Trong
thực tế Nhật vẫn cai trị Nam Kỳ. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, Nam Kỳ
mới được trao trả ngày 14 tháng 8 năm 1945, nhưng 10 ngày sau đó Hoàng đế Bảo
Đại thoái vị. Đây là chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, cũng là
lần đầu tiên danh xưng Việt Nam được chính thức dùng làm quốc hiệu và đất Nam
Kỳ được thống nhất về mặt danh nghĩa vào đất nước Việt Nam.
Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa
Là
tên gọi của cả nước Việt Nam từ 1945 đến 1954 và miền Bắc Việt Nam từ 1954
đến 1976. Nhà nước này được thành lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 (ngày quốc
khánh của Việt Nam ngày nay). Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối đầu với Pháp
và Quốc gia Việt Nam được lập ra dưới cái ô của Pháp năm 1949. Trong thời kỳ
1954-1975, chính thể này lại phải đối đầu với Việt Nam Cộng Hoà được thành
lập tại miền Nam Việt Nam.
Nam
Kỳ quốc
Nam
Kỳ quốc hay Nam kỳ Cộng hòa quốc (tiếng Pháp: République de
Cochinchine) là danh xưng do chính phủ Pháp đặt ra cho vùng lãnh thổ Việt
Nam phía dưới vĩ tuyến 16. Chính quyền Nam Kỳ quốc được thành lập ngày 26
tháng 3 năm 1946, về danh nghĩa là một quốc gia độc lập với Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Danh xưng này tồn tại được 2 năm, sau đó lại chính quyền Nam kỳ
quốc giải thể, đổi tên lại thành Chính phủ Nam phần Việt Nam, rồi sát nhập
vào chính quyền lâm thời Quốc gia Việt Nam ngày 2 tháng 6 năm 1948.
Quốc
gia Việt Nam
Là
danh xưng của toàn bộ vùng lãnh thổ Việt Nam, ra đời chính thức từ Hiệp ước
Elysée ký ngày 8 tháng 3 năm 1949, giữa Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu
hoàng Bảo Đại. Về danh nghĩa, chính quyền thuộc khối Liên hiệp Pháp, độc lập,
đối kháng và tồn tại trên cùng lãnh thổ với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Danh xưng Quốc gia Việt Nam tồn tại trong 6 năm (1949-1955). Năm 1955,
Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, giải tán Quốc gia Việt Nam, thành
lập chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Việt
Nam Cộng Hòa
Là
tên gọi quốc gia được thành lập tại miền Nam Việt Nam, kế tục Quốc gia Việt
Nam (1949–1955). Năm 1955, trong một cuộc trưng cầu dân ý, thủ tướng Ngô Đình
Diệm đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, thành lập chính quyền Việt Nam Cộng
Hòa. Chính quyền này tồn tại độc lập trong 20 năm và sụp đổ vào năm 1975.
Cộng
hòa Miền Nam Việt Nam
Là
tên gọi mà Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, được Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa hậu thuẫn, đặt ra cho miền Nam Việt Nam với việc thành lập một
chính phủ mới để chống lại chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Danh xưng này tồn
tại trong 7 năm (1969-1976), sau đó, chính quyền lâm thời Cộng hòa Miền Nam
Việt Nam đã giải tán để hợp nhất với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành một quốc
gia Việt Nam thống nhất.
Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ngày
2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội khóa 6 nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã quyết
định đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hiệu này
được sử dụng từ đó đến nay.
Các danh xưng gây tranh cãi
Dưới
đây là những danh từng được dùng không chính thức để chỉ vùng lãnh thổ quốc
gia Việt Nam. Những danh xưng không chính thức được ghi nhận lại từ cổ sử
hoặc từ các tài liệu nước ngoài từ trước năm 1945.
Xích
Quỷ
Xích
Quỷ, còn gọi là Thích Quỷ, theo Việt Nam Sử lược là có
nguồn gốc từ thủy tổ của người Việt là Kinh Dương Vương.
Sách
chép:
Cứ theo tục truyền thì vua
Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ
Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra người con
tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua
phương bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là Kinh Dương
Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ
phía bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành),
phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp bể Nam Hải.
Kinh Dương Vương làm vua
nước Xích Quỷ vào quãng năm nhâm tuất (2879 trước Tây Lịch?) và lấy con gái
Động Đình Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long
Quân.
Nam
Việt
Là
quốc hiệu thời nhà Triệu (207 TCN-111 TCN), Nói chính xác thì đối tượng tranh
cãi không phải là bản thân tên gọi Nam Việt, mà vấn đề là quốc hiệu này có
đại diện cho nước Việt Nam hay không. Thời phong kiến xem Nam Việt chính là
quốc hiệu của tộc người Việt, nhưng quan điểm chính thống ngày nay cho rằng
quốc gia Nam Việt khi đó là của người Trung Hoa. Lý do không coi Nam Việt là
của Việt Nam: Triệu Đà là người Hán, quê huyện Chân Định, nhân lúc nhà Tần
suy loạn đã nổi lên lập ra nhà Triệu, lấy quốc hiệu là Nam Việt. Các ý kiến
cho rằng quốc hiệu này là của người Việt có các nhận định của các học giả như
Lê Văn Hưu hay Ngô Sĩ Liên.
Lê
Văn Hưu nói: Đất Liêu Đông không có Cơ Tử thì không thành phong tục mặc áo
đội mũ [như Trung Hoa], đất Ngô Cối không có Thái Bá thì không thể lên cái
mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người Đông Di nhưng là bậc vua giỏi trong Ngũ
Đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền trong Tam Đại. Thế mới biết
người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở
đức mà thôi. Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối
ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là "lão phu", mở đầu cơ nghiệp đế
vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người làm vua nước
Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân
quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, thì gìn giữ bờ
cõi được lâu dài, người phương Bắc không thể lại ngấp nghé được.
Ngô
Sĩ Liên nói: Truyện Trung Dung có câu: "Người có đức lớn thì ắt có
ngôi, ắt có danh, ắt được sống lâu". Vũ Đế làm gì mà được như thế? Cũng
chỉ vì có đức mà thôi. Xem câu trả lời Lục Giả thì oai anh vũ kém gì Hán Cao.
Đến khi nghe tin Văn Đế đặt thủ ấp trông coi phần mộ tổ tiên, tuế thời cúng
tế, lại ban thưởng ưu hậu cho anh em, thì bấy giờ vua lại khuất phục nhà Hán,
do đó tông miếu được cúng tế, con cháu được bảo tồn, thế chẳng phải là nhờ
đức ư? Kinh Dịch nói: "Biết khiêm nhường thì ngôi tôn mà đức sáng, ngôi
thấp mà không ai dám vượt qua". Vua chính hợp câu ấy.
Hoặc
vua Quang Trung sau khi đánh bại đội quân nhà Thanh năm 1789 đã có ý định đòi
lại đất hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây với lý do đây là đất cũ của Nam Việt
thời Triệu Đà.
An
Nam
Là
danh xưng của người nước ngoài chỉ lãnh thổ Việt Nam trong một số thời kỳ.
Nguồn
gốc danh xưng này từ thời Bắc thuộc (Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ), nhà Đường
ở Trung Quốc đã đặt tên cho khu vực lãnh thổ tương ứng với khu vực miền Bắc
Việt Nam ngày nay là An Nam đô hộ phủ (673-757 và 768-866).
Sau
khi giành được độc lập, các triều vua Việt Nam thường phải nhận thụ phong của
Trung Quốc, danh hiệu An Nam quốc vương (kể từ năm 1164).
Từ
đó người Trung Quốc thường gọi nước Việt Nam là An Nam, bất kể quốc hiệu là
gì. Cách gọi này đã ảnh hưởng đến cách gọi của người châu Âu trước năm 1945.
Thời
kỳ thuộc Pháp, Annam (gọi theo tiếng Pháp) là tên gọi chỉ vùng lãnh
thổ Trung Kỳ do nhà Nguyễn cai trị dưới sự bảo hộ của Pháp. Tuy vậy, người
Pháp vẫn dùng danh xưng Annam để chỉ người Việt nói chung ở cả 3 vùng Bắc Kỳ
(Tonkin), Trung Kỳ (Annam) và Nam Kỳ (Cochinchine).
(Tư
liệu lấy từ Kiến thức bách khoa )
|